Đặc điểm địa lý:
- Vị trí địa lý: Phần Lan là một quốc gia Bắc Âu, phía Đông và Đông Nam giáp với Nga, phía Bắc giáp NaUy, phía Tây giáp Thụy Điển, phía Nam và Tây Nam là vịnh Phần Lan, biển Baltic và vịnh Bothnia.
- Khí hậu : Ôn đới và cận Bắc cực với mùa đông từ –3C đến –14 C, mùa hè từ 13-17 C.
- Tài nguyên thiên nhiên : Gỗ xây dựng, quặng sắt, đồng đỏ, chì, kẽm, cromit, niken, vàng, bạc, đá vôi
- Cảng biển và các ga chính: Hamina, Hanko, Helsinki, Kotka, Naantali, Pori, Porvoo, Raahe, Rauma, Turku.
- Canada có nhiều hồ nhất thế giới với khoảng 3 triệu hồ nước, chiếm 60% tổng hồ trên thế giới. Thế nhưng, Phần Lan mới được gọi là “xứ sở nghìn hồ”.Theo World Atlas, lý do Phần Lan được gọi là “xứ sở nghìn hồ” là trung bình cứ 26 người dân lại có một hồ. Dân số khoảng 5,5 triệu, đất nước này có hơn 187.000 hồ. Nước chiếm 10% diện tích đất ở Phần Lan. Hai phần ba diện tích là thảm thực vật rừng. Điều này giúp Phần Lan trở thành một trong những điểm du lịch tuyệt vời nhất châu Âu.
- Phần Lan là nước có nhiều rừng, rừng chiếm 3/4 diện tích đất nước, bình quân 4ha rừng/ người, đứng đầu thế giới và gấp 15 lần mức trung bình của các nước Tây Âu. Cả nước có gần 190.000 hồ (chiếm 10% diện tích cả nước) và rất nhiều đảo.
Đôi nét về Phần Lan:
Là một điểm đến thú vị ở Bắc Âu, Phần Lan khoác lên mình vẻ đẹp dịu dàng mà kín đáo. Đến với đất nước Phần Lan, du khách như bước vào một thế giới cổ tích trong những câu chuyện thần thoại Bắc Âu với nét cổ kính trong lối kiến trúc của những ngôi nhà, ngôi đền. Mặc khác, đất nước cũng sở hữu những thành phố phát triển với vẻ đẹp lộng lẫy xa hoa. Phần Lan cũng là nước Bắc Âu duy nhất tham gia hệ thống đồng tiền chung Châu Âu với tư cách là thành viên sáng lập vào tháng 1/1999.
Một số mốc quan trọng:
1155: Người truyền giáo đầu tiên là người Thụy Điển đến Phần Lan. Phần Lan trở thành một phần lãnh địa của Thụy Điển.
1809: Thụy Điển nhượng Phần Lan cho Nga hoàng, Nga hoàng tuyên thệ Phần Lan là nửa tự trị của lãnh địa đại công tước như một quốc vương lập hiến.
1917: Phần Lan tuyên bố độc lập chủ quyền, không còn là vùng tự trị của Nga hoàng vào ngày 6 tháng 12.
1919: Phần Lan thiết lập hiến pháp, trở thành một quốc gia cộng hòa với sự đứng đầu là tổng thống.
1939-1940: Liên Xô tấn công Phần lan, nổ ra cuộc Chiến tranh Liên Xô – Phần Lan (1940).
1941-1944: Cuộc chiến tranh giữa Phần Lan và Liên Xô tiếp tục trong cuộc chiến Continuation War. Một phần lãnh thổ của Phần Lan phải nhựơng lại cho Liên Xô.
1955: Phần Lan gia nhập Liên hiệp quốc và trở thành thành viên của Bắc Âu năm 1956.
1995: Phần Lan trở thành thành viên của Liên minh Châu âu.
Một số đặc điểm khác
1. Hệ thống Chính trị:
- Trong lịch sử, Phần Lan từng là một phần của Thụy Điển trong một thời gian dài (từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 18 rồi sau đó trở thành một đại công quốc dưới sự cai trị của Sa hoàng nước Nga trong khoảng thời gian 1809-1917. Ngày 6 tháng 12 năm 1917, Phần Lan chính thức tuyên bố độc lập, trở thành một nước cộng hòa. Sau Thế chiến thứ 2, Phần Lan giữ vai trò như một nước trung lập và đã chuyển đổi nhanh chóng từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp phát triển cao vào hàng bậc nhất châu Âu. Ngày nay, Phần Lan là một quốc gia dân chủ theo chế độ cộng hòa nghị viện. Nước này là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ năm 1995 và gia nhập Liên minh Châu âu vào năm 1995.
- Quốc hội Phần Lan gồm một viện với 200 ghế. Năm 1928, luật quốc hội được thông qua. Nó đặt ra cơ cấu, trách nhiệm và cơ chế bầu cử quốc hội. Các thành viên trong quốc hội được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 4 năm. Theo hiến pháp, quốc hội bầu ra thủ tướng, sau đó được tổng thống bổ nhiệm vào nội các. Các bộ trưởng cũng được tổng thống bổ nhiệm dựa trên sự đề xuất của thủ tướng.Trong vài thập kỷ qua quyền lực của Tổng thống đã bị giảm bớt. Trong bản sửa đổi hiến pháp, có hiệu lực vào năm 1991 hoặc 1992 cùng với một hiến pháp mới được soạn thảo năm 2000, được sửa đổi vào năm 2012, Tổng thống đã dần dần trở thành một nhân vật mang tính nghi thức. Nhiều tổng thống đã từng là thủ tướng trước khi tiếp nhận chức tổng thống.
- Quốc hội một Viện với 200 nghị sĩ, nhiệm kỳ 4 năm, được bầu theo phổ thông đầu phiếu. Quốc hội Phần Lan (bầu cử 16/3/2003) có 11 Đảng như sau : Đảng Trung tâm; Đảng XHDC ; Đảng Bảo thủ; Liên minh cánh tả ; Đảng Môi trường Xanh ; Đảng Nhân dân Thuỵ Điển ; Liên đoàn Thiên chúa giáo ; Đảng Nhân dân Tự do; Đảng Cộng sản; Đảng Nông thôn Phần Lan
- Chính phủ hiện nay thành lập ngày 16/4/2003 gồm 18 người là Chính phủ liên hiệp Đảng Trung tâm, XHDC, và Nhân dân Thuỵ Điển) chiếm 116/200 ghế ở Quốc hội.
2.Kinh tế:
Từ một nước bị tàn phá sau chiến tranh và phải trả một khoản bồi thường chiến tranh lớn giữa những năm 1940, Phần Lan đã tập trung vào xây dựng đất nước và đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế có sức cạnh tranh và tiềm năng phát triển hàng đầu thế giới với nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn truyền thống, có chuyên môn hoá cao như công nghiệp gỗ giấy; luyện kim; đóng tàu và vận tải; cơ khí; điện tử, viễn thông; công nghiệp hoá chất, dược phẩm. Về nông nghiệp, Phần Lan có 2.504 ngàn héc-ta đất trồng trọt (chiếm 8% diện tích), tự túc 85% lương thực.
Một số mặt hàng nông công nghiệp chính
- Nông nghiệp : lúa mạch, lúa mỳ, củ cải đường, khoai tây, bò sữa, cá . Phần Lan hiện có 2.504 ngàn hécta đất trồng trọt, tự túc 85% lương thực.
- Công nghiệp : kim loại và các sản phẩm từ kim loại, hàng điện tử, máy móc và thiết bị khoa học, đóng tàu, giấy và bột giấy, thực phẩm, hóa chất, hàng dệt may, quần áo
Công nghiệp
Phần Lan tiến hành công nghiệp hóa nhanh chóng sau Thế chiến II, đạt mức GDP bình quân đầu người ngang bằng với Nhật Bản và Anh vào đầu những năm 1970. Ban đầu, phần lớn sự phát triển dựa trên hai nhóm ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu, là “công nghiệp kim loại” (metalliteollisuus) và “công nghiệp rừng” (metsäteollisuus). Các “ngành công nghiệp kim loại” bao gồm đóng tàu, gia công kim loại, ngành công nghiệp xe hơi, các sản phẩm thiết kế như động cơ và điện tử, và sản xuất kim loại (thép, đồng và crom). Những con tàu du lịch lớn nhất thế giới được chế tạo tại các xưởng đóng tàu của Phần Lan. “Ngành công nghiệp rừng” bao gồm lâm nghiệp, gỗ, bột giấy và giấy, và là một sự phát triển hợp lý dựa trên nguồn tài nguyên rừng rộng lớn của Phần Lan (77% diện tích được bao phủ bởi rừng, phần lớn là sử dụng tái tạo). Trong ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nhiều công ty lớn nhất có trụ sở tại Phần Lan (Ahlstrom, Metsä Board, và UPM). Tuy nhiên, nền kinh tế Phần Lan đang dần đa dạng hóa, mở rộng sang các lĩnh vực khác như điện tử (như Nokia), đo lường (Vaisala), nhiên liệu vận tải (Neste), hóa chất (Kemira), tư vấn kỹ thuật (Pöyry) và công nghệ thông tin (ví dụ Rovio Entertainment, nổi tiếng với tựa game Angry Birds), và không còn bị chi phối bởi hai ngành công nghiệp kim loại và rừng. Tương tự như vậy, cấu trúc đã thay đổi, với tỉ trọng các ngành dịch vụ ngày càng tăng, và với việc công nghiệp sản xuất ngày càng giảm tầm quan trọng; nông nghiệp thì chỉ chiếm một phần nhỏ.
Công nghiệp gỗ giấy : là ngành truyền thống của Phần Lan, 80% sản phẩm dành cho xuất khẩu. Gỗ tùng đỏ và gỗ vân sam Bắc Âu có chất lượng tuyệt hảo : mắt gỗ nhỏ và ít, vân đẹp, chịu nội lực tốt, ít bị nứt bên trong, được khách hàng đánh giá cao. Hàng năm sản xuất khoảng 9 triệu tấn bột giấy, đứng thứ hai thế giới sau Canada về xuất khẩu giấy, tổng giá trị gần 4 tỉ USD/năm. Phần Lan cung cấp khoảng 1/5 máy xén giấy trên thế giới. Finnforest là công ty sản xuất sản phẩm gỗ lớn nhất châu Âu. Doanh thu hàng năm là 1,8 tỷ Euro với 7700 nhân viên, là thành viên chính của tập đoàn Metsaliito hoạt động trong 2 lĩnh vực chính là chế biến (cung cấp các sản phẩm gỗ xẻ) và sản phẩm gỗ có phụ gia cao cấp. Mạng lưới kinh doanh của công ty có mặt trên hơn 20 quốc gia. Finnforest có 12 nhà máy chế biến ở Phần Lan, ngoài ra có 16 nhà máy khác tại Thụy Điển và Na Uy với tổng sản lượng là 1.550.000 m3/năm.
Công nghiệp luyện kim : nổi tiếng nhất là luyện đồng. Phần Lan là một trong những nước đứng đầu Tây Âu về sản xuất đồng 65.000 tấn, kẽm 175.000 tấn/năm.
Công nghiệp đóng tàu, vận tải : chủ yếu đóng các loại tàu đặc biệt như tàu phá băng, tàu chở khách, tàu nghiên cứu biển, dàn khoan dầu.
Công nghiệp hoá chất, dược phẩm, điện tử : cũng phát triển cao.
Khí hậu:
Khí hậu: Mùa hạ ấm. Mùa đông dài và rất lạnh, nhất là ở phía Bắc.
Khí hậu của Phần Lan có sự khác biệt rõ rệt vào mùa đông và mùa hè, nhiệt độ trung bình hằng năm tại thủ đô Helsinki khoảng 5,3°C. Nhiệt độ cao nhất vào ban ngày ở miền Nam của Phần Lan đôi khi cũng lên tới 25 °C. Vào mùa đông, nhất là vào những tháng 1, tháng 2, nhiệt độ thông thường là -20 °C. Phía cực bắc của Phần Lan, dưới vòng Bắc Cực, vào mùa hè có đợt Mặt trời không lặn trong khoảng 73 ngày, đó là những ngày “hè đêm trắng”, còn vào mùa đông Mặt Trời không mọc trong 51 ngày liền.
Những hoạt động Bắc Cực kỳ thú như những chuyến đi bằng xe tuần lộc kéo hay xe trượt tuyết tự bạn lái đã khiến cho mùa Đông trở nên thời gian thu hút nhiều khách nước ngoài nhất. Nhiều đoàn người kéo về vùng phía Bắc và phía Đông của Phần Lan vào những đêm mùa Đông quang trời, hy vọng được chiêm ngưỡng sự thoáng hiện của Vừng Sáng Bắc Cực tuyết đẹp.
Tuyết rơi nhiều nhất vào giữa tháng Ba, trung bình dày từ 60 đến 90 cm (23.6 đến 35.4 in) ở phía Đông và phía Bắc, và khoảng từ 20 đến 30 cm (7.9 đến 11.8 in) ở phía Nam của Phần Lan. Mặt hồ đóng băng vào cuối tháng Mười Một và đầu tháng Mười Hai,và trong những mùa Đông khắc nghiệt biển Baltic cũng bị đóng băng dường như hoàn toàn
Mùa hè thường bắt đầu vào cuối tháng Năm ở miền Nam Phần Lan và kéo dài đến giữa tháng Chín. Những vùng nằm ở phía Bắc vòng Bắc Cực có những ngày địa cực đặc trưng, gọi một cách lãng mạn là mặt trời nửa đêm, những ngày này mặt trời không hề lặn. Vùng cực Bắc của Phần Lan có tới 73 ngày như vậy mỗi năm.
Phần lớn người dân Phần Lan chuẩn bị kỳ nghỉ Hè của mình vào trước lúc giữa Hè. Đây là thời gian của huyền thoại Juhannus – bữa tiệc Hạ Chí. Đối với du khách cũng như người dân Phần Lan, đây là thời gian đẹp nhất trong năm để tận hưởng cảm giác được nhảy xuống nước hồ ấm áp sau mỗi lần tắm hơi.
Văn hóa:
Văn hoá Phần Lan được hình thành cách đây rất lâu. Kết thúc thế kỷ cuối cùng, tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc nổi bật lên ở các làn nghệ thuật khi người Phần Lan tìm thấy sự đồng nhất của chính bản thân họ. Minh chứng lớn nhất trong thời gian này là “thiên sử thi Kalevala’’ – thể loại văn nổi tiếng trên thế giới của dân tộc Phần Lan. Thể loại này dựa trên nền tảng văn hoá dân gian của cư dân Carêli – Đông Bắc Châu Âu cổ xưa và nó là nguồn cảm hứng to lớn đối với các nghệ sỹ Phần Lan và nước ngoài.
Thiên nhiên sạch đẹp và nguyên sơ luôn là nét đặc sắc trong nghệ thuật Phần Lan: âm nhạc, thiết kế, kiến trúc và văn chương. Phần Lan có rất nhiều những văn nghệ sỹ, hoạ sỹ, kiến trúc sư và nhà thiết kế…nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn cả nước ngoài: Jean Sibelius (nghệ sỹ sáng tác), Akseli Gallén – kallela (hoạ sỹ), Alvar Aalto (nhà thiết kế và kiến trúc sư)….
An sinh xã hội
Phần Lan có một trong những hệ thống an sinh xã hội rộng rãi nhất thế giới, một hệ thống đảm bảo tốt điều kiện sống cho tất cả người dân. Kể từ những năm 1980, an sinh xã hội đã được cắt giảm, nhưng hệ thống an sinh xã hội của Phần Lan vẫn là một trong những hệ thống an sinh xã hội phát triển toàn diện nhất và tiến bộ nhất trên thế giới. Hệ thống an sinh xã hội (giáo dục, y tế, phúc lợi) của Phần Lan được hình thành trong 3 thập niên đầu tiên sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh.
Kế hoạch hưu trí của Phần Lan được hình thành từ năm 1937, đến năm 1957, chính phủ Phần Lan thiết lập một kế hoạch lương hưu cải thiện tạo cơ sở để hình thành Luật Hưu trí quốc gia. Vào đầu thập niên 60, kế hoạch lương hưu được bổ sung thêm quỹ lương hưu tư nhân. Trợ cấp thất nghiệp được hình thành vào năm 1959 và 1960, đổi mới vào năm 1972. Trong những thập niên 50 và 60, việc xây dựng mạng lưới bệnh viện, giáo dục nhân sự về y tế được thực hiện nhiều hơn. Hệ thống trợ cấp nhà ở được mở rộng trong thập niên 60, hướng tới toàn bộ dân cư. Từ năm 1963 tới đầu thập niên 70, hệ thống bảo hiểm sức khỏe được thiết lập. Các quan chức y tế bắt đầu nhấn mạnh đến các bệnh viện địa phương nhỏ hơn.
Vào thập niên 80, chi phí xã hội ở Phần Lan chiếm khoảng 24% GDP. Chưa tới 10% chi phí này do những người lao động trả, phần còn lại do nhà nước và chủ lao động trả. Cuối thập niên 80, Bộ Quan hệ xã hội và Sức khỏe định hướng hệ thống phúc lợi thông qua năm vụ: Bảo hiểm xã hội, Phúc lợi xã hội, Y tế, Chính sách chất cồn và điều độ, và Lao động. Trong chính sách xã hội, có 3 ban chủ yếu chịu trách nhiệm về phúc lợi xã hội, y tế và bảo hộ lao động. Các quan chức cấp tỉnh giám sát các chính quyền địa phương – các chính quyền tự trị – cung cấp chăm sóc xã hội. Đầu thập niên 80, nhà nước chi trả 30% cho lương hưu và các dịch vụ xã hội, chủ lao động trả 40%, chính quyền địa phương 15% và người nhận dịch vụ trả phần còn lại. Mọi người dân ở Phần Lan không phải trả tiền cho giáo dục ở bất kỳ mức học nào, kể cả khi theo học trường y hay trường luật. Người về hưu ở Phần Lan được chăm sóc tốt, còn người thất nghiệp được hưởng mức trợ cấp thất nghiệp rất cao.
Hệ thống an sinh xã hội của Phần Lan cung cấp cho người dân:
- Các chương trình an sinh xã hội: Phần Lan chia phần lớn các chương trình an sinh xã hội thành các chương trình bảo đảm an sinh thu nhập và các chương trình cung cấp dịch vụ sức khỏe và xã hội. Nguồn thu của các chương trình an sinh xã hội gồm có hai lĩnh vực là: bảo hiểm xã hội, bảo đảm thu nhập cho người già, ốm đau, phụ nữ có thai, người thất nghiệp, hoặc bị thương tật liên quan đến lao động; và an sinh thu nhập được phân thành các loại như phúc lợi, bao gồm chuyển thu nhập để trợ cấp cho các gia đình thông qua các biện pháp như trả cho trẻ em, trợ cấp người mẹ, trả cho nạn nhân chiến tranh và gia đình họ, trợ cấp tài chính cho những người tàn tật hoặc có nhu cầu bức thiết. Các chương trình của bảo hiểm xã hội, chiếm tới 80% quỹ phúc lợi xã hội [18].
- Lương hưu: Vào cuối thập niên 80, Luật Hưu trí quốc gia được cải cách nhằm mở ra cơ hội cho tất cả mọi người ở độ tuổi trên 16 tuổi. Thậm chí người nước ngoài ở Phần Lan, dù không phải là người có nguồn gốc Bắc Âu, cũng được hưởng lợi từ luật này nếu đã định cư ở Phần Lan trong thời gian ít nhất là 5 năm. Độ tuổi được hưởng lương hưu là 65 tuổi, và dao động trong độ tuổi từ 50 đến ngoài 60 nếu như người đó nằm trong trường hợp bị thất nghiệp lâu ngày [18].
- Bảo hiểm ốm đau: Luật Bảo hiểm ốm đau ra đời vào năm 1963 nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho người dân Phần Lan. Luật quy định tất cả công dân đều được bảo hiểm khi đau ốm. Các hệ thống chăm sóc sức khỏe ở bệnh viện và trung tâm y tế đều miễn phí. Phụ nữ khi sinh đẻ được thanh toán trung bình khoảng 80% thu nhập trong thời gian 1 năm. Người sống độc thân có một con được thanh toán 92% thu nhập khi ốm đau, trong khi người độc thân không có con được thanh toán 77% thu nhập. Đối với những gia đình có cả vợ chồng và con, mức thanh toán bảo hiểm khi ốm đau là khoảng 90% thu nhập thực tế. Quỹ bảo hiểm ốm đau chủ yếu do nhà nước chi trả; người nhận trả thông qua 2% thuế thu nhập, chủ sử dụng lao động trả 1% lương của người lao động.
- Bảo hiểm thất nghiệp: Năm 1984, Phần Lan cải cách Luật An sinh thất nghiệp, trong đó tất cả công dân Phần Lan từ 17 đến 64 tuổi đều được hưởng bảo hiểm khi thất nghiệp. Mức trợ cấp thất nghiệp cho những người đang tìm việc làm là 70 Fmk/ngày và người thất nghiệp được hưởng trợ cấp này ít nhất là 500 ngày trong giai đoạn 4 năm. Những người gần 60 tuổi không có khả năng tìm việc có thể được trợ cấp thất nghiệp tương đương với một mức lương tàn tật cho tới khi họ đến tuổi được nhận lương hưu. Giới chủ và nhà nước đóng góp 95% cho quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong khi người lao động chỉ phải đóng 5%.
- Trợ cấp gia đình: Được thực hiện dưới nhiều hình thức. Các bậc cha mẹ được nhận thông tin, hỗ trợ, tư vấn cha mẹ và sức khỏe, tiêm chủng trước và sau khi sinh con từ các bệnh viện chăm sóc sức khỏe của nhà nước. Các bệnh viện này cũng giám sát về thể lực, thần kinh và điều kiện xã hội của trẻ em và thu thập số liệu phục vụ cho các mục tiêu sức khỏe cộng đồng. Việc trợ cấp cho các gia đình có trẻ em được bảo đảm dưới hình thức trợ cấp cho trẻ em, chăm sóc trẻ em, trợ cấp nuôi dưỡng và trợ cấp cho người mẹ. Hình thức trợ cấp trẻ em có từ thập niên 30 và là một phần sớm nhất của hệ thống phúc lợi. Luật Trợ cấp trẻ em có từ năm 1948, trợ cấp cho gia đình có trẻ em dưới 16 tuổi là công dân cư trú ở Phần Lan, không phụ thuộc vào thu nhập hoặc quốc tịch của cha mẹ. Trợ cấp trẻ em được trả cho cha mẹ phải ở nhà chăm sóc con nhỏ hoặc phải thuê người làm việc đó. Phần Lan đưa ra rất nhiều chính sách để giúp đỡ cho những cặp vợ chồng muốn có con. Thời gian nghỉ phép có lương của các bậc cha mẹ ở Phần Lan kéo dài đến 18 tuần cho người mẹ và 9 tuần cho người bố. Bên cạnh đó họ còn có khoảng 26 tuần nghỉ chung trong khi vẫn hưởng đến 70-90% tiền lương. Theo đó trợ cấp dành cho một đứa trẻ mới sinh trong mỗi gia đình là 100 euro/tháng, từ đứa thứ 3 là 141 euro/tháng và từ đứa thứ năm sẽ là 182 euro/tháng. Khoản tiền này có thể được cung cấp cho đến khi đứa trẻ 17 tuổi. Ngoài ra, mỗi khi một đứa trẻ được chào đời, chính phủ sẽ tặng cho mỗi bà mẹ một chiếc hộp dụng cụ với đầy đủ các đồ dùng cần thiết cho việc chăm sóc một đứa trẻ: đồ trẻ em, túi ngủ, đồ dùng ngoài trời, sản phẩm tắm cho em bé, tã lót và đệm. Hộp quà này hoàn toàn miễn phí và được áp dụng với tất cả mọi người không kể giàu nghèo.
- Dịch vụ chăm sóc trẻ em: Luật có hiệu lực lâu dài là Luật Chăm sóc trẻ hàng ngày năm 1973, quy định tất cả các chính quyền địa phương cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ hàng ngày tốt nhất cho tất cả các gia đình có nhu cầu. Các trung tâm chăm sóc hàng ngày hoặc tư nhân chăm sóc trẻ em đến 7 tuổi được điều hành bởi chính quyền địa phương hoặc do sự ủy nhiệm của những người trông trẻ, tại gia đình của trẻ hoặc ở nơi khác. Luật Phúc lợi trẻ em năm 1983 quy định các chính quyền địa phương chăm sóc trẻ em, và cho quyền thực hiện các biện pháp đa dạng nếu một em bé bị bỏ rơi hoặc lạm dụng. Giữa thập niên 80, khoảng 2% trẻ em Phần Lan được luật này bao bọc. Một đạo luật khác năm 1983 quy định, nhục hình với trẻ em là bất hợp pháp.
- Dịch vụ cho người tàn tật: Phúc lợi được quy định trong Đạo luật đối với người tàn tật năm 1946 quy định trách nhiệm điều trị cho những người tàn tật. Các cơ sở cung cấp nhà ở, đào tạo nghề, môi trường làm việc và phục hồi sức khỏe cho những người tàn tật hoạt động dưới sự giám sát của Ban Phúc lợi xã hội quốc gia, còn Ban Trường học quốc gia giám sát các trường dành cho trẻ em tàn tật. Các thiết bị đặc biệt, như chân tay giả… được cung cấp miễn phí.
- Hệ thống y tế: vào nửa sau thập niên 80, người dân Phần Lan được hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe như ở các nước phát triển cao. Luật Chăm sóc sức khỏe 1972 đã tạo điều kiện cho sự ra đời của khoảng 2.000 trung tâm y tế địa phương, mỗi trung tâm phục vụ tối thiểu 10.000 người. Mục tiêu cơ bản của Luật 1972 là tạo điều kiện cho tất cả người dân Phần Lan tiếp cận bình đẳng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe, không tính đến thu nhập hoặc nơi họ sinh sống. Do phần lớn dịch vụ của các trung tâm y tế không phải trả phí, nên chính quyền trung ương hỗ trợ để tăng nguồn tài chính cho các chính quyền địa phương. Sự hỗ trợ này chiếm khoảng từ 30% đến 65% chi phí khám chữa bệnh. Phần lớn các trung tâm y tế có ít nhất 3 bác sĩ và khoảng 7 nhân viên trên 1 bác sĩ. Do được đào tạo nghiệp vụ cao, các y tá có trình độ tương đương bác sĩ ở nhiều nước khác. Phần lớn các trung tâm đều có các bà đỡ có nghiệp vụ cao kết hợp với chương trình chăm sóc trước khi sinh tăng cường, khiến cho tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong ở Phần Lan rất thấp. Giữa thập kỷ 80, các bệnh viện công có khoảng 50.000 giường, 40 bệnh viện tư nhân có khoảng 3.000 giường. Có thêm 20.000 giường cho bệnh nhân tại các trung tâm y tế, viện dưỡng lão và các cơ sở phúc lợi khác.
Nền giáo dục Phần Lan
Phần Lan được biết đến là một trong những quốc gia hiện đại nhất, đổi mới nhất của Châu Âu với hệ thống giáo dục nổi tiếng thế giới, nó đã trở thành điểm đến phổ biến của sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.
Nhiều trường đại học Phần Lan có danh tiếng học thuật nguyên sơ. Đầu tiên và quan trọng nhất là Đại học Helsinki, trường đại học lâu đời nhất và lớn nhất của đất nước, theo sát là Đại học Aalto, cũng nằm ở Helsinki.
Với hệ thống giáo dục hoạt động cực tốt đó, Phần Lan có đến hơn 14.000 sinh viên quốc tế chọn du học. Tính đến năm 2019, Phần Lan vượt qua Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Ucs, New Zealand về điểm toán, khoa học và đọc. Các trường đại học ở Phần Lan được xếp hạng trong 3% hàng đầu toàn cầu.
Nền giáo dục Phần Lan đã chú trọng đầu tư cho học sinh từ thời thơ ấu để bước vào thế giới thật, cung cấp cho các em những công cụ để có một cuộc sống ý nghĩa. Học sinh được giảng dạy thông qua phương pháp tiếp cận đa ngành kết hợp tự học, giải quyết vấn đề và phát triển bản thân, đảm bảo trải nghiệm học tập toàn diện từ mầm non đến đại học.
Giống như nhiều quốc gia châu Âu khác, Phần Lan phân biệt giữa các trường đại học truyền thống hướng đến nghiên cứu và cái được gọi là “Các trường đại học Khoa học Ứng dụng” (UAS), hoặc các trường bách khoa.
Các cơ sở này cung cấp chất lượng cao, giáo dục định hướng thực hành và do đó tập trung ít hơn vào nghiên cứu học thuật cổ điển. Bởi vì xếp hạng đại học thường thiên về nghiên cứu, những trường tốt này có xu hướng bị loại trừ, mặc dù chúng mang lại cơ hội tuyệt vời cho sinh viên quốc tế – đặc biệt là ở cấp độ cử nhân.